thơ về nạn đói 1945
Cuốn sách "Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam: Những chứng tích lịch sử". Các tác giả đã nghiên cứu và khảo cứu công phu, tìm hiểu chi tiết các tư liệu lịch sử, khảo sát trực tiếp những địa điểm xảy ra nạn đói, phỏng vấn những nhân chứng lịch sử để dựng lại khá
Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, "Vợ nhặt" của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Với một vốn sống phong phú về nông thôn và người nhà quê, với một tấm lòng nhân hậu bao dung, câu chuyên anh trai cày thô kệch "nhặt" được vợ, đã được tác giả kể lại một cách cảm động, đậm đà.
Lấy bối cảnh chính là hiện thực cuộc sống những năm 1945, thời kì cả đất nước chìm vào những khó khăn bị áp bức bóc lột khiến gần 2 triệu đồng bào ta chết đói, và nạn đói diễn ra kéo dài từ Quảng Trị trở ra bắc, hiện thực tàn khốc ấy đã được Kim Lân khéo léo và đưa vào như một sự tố cáo cũng như lên án sự tàn khốc của hiện thực lúc bấy giờ.
Phân tích nhân vật người Vợ nhặt vào tác phẩm Vợ Nhặt. Bài làm. Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim lạm viết lên bằng cái ám ảnh rùng rợn của nạn đói đầu năm 1945 trong tâm địa trí của tác giả cũng là trong thâm tâm trí của người dân miền Bắc.
Nạn đói năm 1945 đã khiến bao người phải chịu cảnh lầm than, phải chết đi. Năm ấy, Bằng Việt mới lên bốn tuổi. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những
Frau Mit 2 Kindern Sucht Mann. lý thuyết trắc nghiệm hỏi đáp bài tập sgk Câu hỏi " Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi" được nhắc tới trong bài thơ gọi nhớ về thời điểm nào của đất nước? Việc nhà thơ tác từ " mòn mỏi" để ghép thành "đói mòn đói mỏi" có tác dụng gì? Ở bài thơ “Bếp lửa” Bằng Việt trong dòng hồi tưởng người cháu nhớ lại “Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi....”Rồi trở về thực tại“ Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tầuCó lửa trăm nhà niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...Câu hỏi a Nêu ý nghĩa văn bản và hoàn cảnh ra đời của bài thơ?Đọc tiếp Xem chi tiết Nhớ về những kỉ niệm tuồi thơ, trong bài thơ Bếp lửa, Bằng Việt viết“Lên bốn tuồi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏị,Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.”Trích Ngữ văn 9, tập mộtCâu 1 Chỉ ra số từ mà tác giả sử dụng trong đoạn thơ và cho biết sự kiện lịch sử nào được nhắc tới trong những câu thơ trên? Sự kiện này giúp em hiểu thêm điều gì về tuổi thơ của người cháu?Câu 2 Xét thẹo mục đích nói, câu “Nghĩ lại đến giờ...Đọc tiếp Xem chi tiết nội dung, nghệ thuật của khổ 2? mình đố các bn làm dcphân tích hình ảnh saumùi khói đói mòn đói mỏikhô rạc ngựa gầycay-nội dung,nghệ thuật khổ 3tú hú cs ý nghĩa gìliên hệ các tác dụng khác}hình ảnh người bà trong khổ thơ hiện lên như thế nào?-khổ 4 tìm bptt và nêu tác dụngkhổ 5giải nghĩa từ lận đận,nắng mưatác dụng của điệp từ nhòm?bà nhóm lên trong lòng cháu những tình cảm gìtác dụng của than từ ôivì sao cháu cảm nhận đc trong bếp lửa bình dị cs sự thiêng liêng và kỳ lạ-khổ cuối dấu chấm câu g...Đọc tiếp Xem chi tiết “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.”Ngữ văn 9, tập hai, NXB GD, 2014 Xem chi tiết Chủ đềBếp lửa- Bằng ViệtCâu hỏinội dung, nghệ thuật của khổ 2? mình đố các bn làm dcphân tích hình ảnh saumùi khói đói mòn đói mỏikhô rạc ngựa gầycay-nội dung,nghệ thuật khổ 3tú hú cs ý nghĩa gìliên hệ các tác dụng khác}hình ảnh người bà trong khổ thơ hiện lên như thế nào?-khổ 4 tìm bptt và nêu tác dụngkhổ 5giải nghĩa từ lận đận,nắng mưatác dụng của điệp từ nhòm?bà nhóm lên trong lòng cháu những tình cảm gìtác dụng của than từ ôivì sao cháu cảm nhận đc trong bếp lửa bình dị cs sự thiêng liêng...Đọc tiếp Xem chi tiết Ở bài thơ Bếp lửa trong dòng hồi tưởng người cháu nhớ lại Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi rồi trở về thực tại Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở - Sớm mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa? 1. Nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ. 2. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi được nhắc đến trong bài thơ gợi về thời điể...Đọc tiếp Xem chi tiết Phần I điểmMột nhà thơ Việt Nam ở hải ngoại đã viết về bà và quê hương nguồn cội bằng tất cả sự nhớ thương, trăn trở. Bài thơ có những câu rất xúc độngNhớ ngày sơ tán lang thangĐọi cơm,bát mắm, thuốc thang bòng đèo Còng lưng Bà gánh đói nghèoMột thân mỏng, Bà chống chèo đói no [...] Vùi trong hơi ấm của BàMắt cháu ngủ, mắt Bà nhoà trong sươngĐỗ Quân, Gorzow,Poland 05/2003Câu 1. Bài thơ “Bếp lửa” Bằng Việt cũng có một khổ thơ viết về người bà đã thay cha mẹ, “chống chèo đói no” cho đứa c...Đọc tiếp Xem chi tiết Từ láy chờn vờn trong dòng thơ đầu giúp em hình dung gì về hình ảnh bếp lửa mà tác giả nhắc tới? Xem chi tiết Bài bài thơ “Bếp lửa”, nhà thơ Bằng Việt đã viết“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”.Câu 1 Chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ 2 Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Xét theo từ loại, nhan đề bài thơ thuộc loại từ gì?Câu 3 Từ “nhóm” trong đoạn thơ vừa chép có ý nghĩa như thế nào? Biện pháp tu từ sử dụng?Câu 4 Bài thơ đã gợi nhắc rất nhiều kỉ niệm tuổi thơ, đó là những kỉ niệm nào?Câu 5 Trong dòng kỉ niệm của tuổi thơ, người cháu rất nhớ câu nói của bà “Bố ở c...Đọc tiếp Xem chi tiết
Thơ Về Nạn Đói 1945 ❤️️ Bài Thơ Đói Của Bàng Bá Lân ✅ Tuyển Tập Những Bài Thơ Viết Về Nạn Đói Năm Ất Dậu 1945 Hay Nhất. Nội Dung Bài Thơ Đói Của Bàng Bá LânCác Bài Thơ Về Nạn Đói 1945 Bài thơ ĐóiTác giả Bàng Bá Lân Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãiGiống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!Những thây ma thất thểu đầy đường,Rồi ngã gục không đứng lên vì… đói!Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm. Khắp đường xa những xác đói rên nằmTrong nắng lửa, trong bụi lầm co đống giẻ chỉ còn đôi hố mắtĐọng chút hồn sắp tắt của thây ma;Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoaNhư muốn bắt những gì vô ảnh,Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh,Một làn da đen xạm bọc xương nhe ra như những chiếc đầu lâu,Má hóp lại, răng hằn sâu gớm trẻ gái trai không còn phân biệt,Họ giống nhau như là những thây ma,Như những bộ xương còn dính chút daChưa chết đã bốc xa mùi tử khí!Mùi nhạt nhẽo nặng nề kỳ dị,Một mùi tanh lộn mửa thoảng mà kinh.Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mìnhKhiến cả tháng ăn không còn ngon bữa!Những thây đó cứ xỉu dần tắt thở,Nằm cong queo mắt vẫn mở trừng con ngươi còn đọng lệ rưng rưng,Miệng méo xệch như khóc còn dang thây chết ba hôm còn nằm đó,Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo…Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờĐắp điếm vội những nấm mồ nông dối! Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia ven đường những nấm mộ âm thầmĐược đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ nấm mộ quá nông trơ hài cốt,Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không vài trận mưa, nước xối chan chan,Ôi, thịt rữa xương tàn phơi rải rác! Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác,Những thây ma ngày lết đến càng đông;Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng,Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ,Rụt rè xem có xác chết nào chăng!Từng chiếc xe bò bánh rít khô khanMỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt chồng chất lù lù như đống rác,Đó đây thò khô đét một bàn chânHay cánh tay gầy khô đét teo rănGiơ chới với như níu làn không khí,Như cầu cứu, như vẫy người chú ý…Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi,Có tiếng cụa mình, tiếng nấc… Những tròng ngươiNhìn đẫm lệ người chôn người chửa chết!Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệtĐược lắp đầy bằng xác chết… thường như mây bay rợp cả một miền…Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết! Họ là những người quê non nước Việt,Sống cần lao bên ruộng lúc đồng xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi,Nước Việt sống nhờ mồ hôi họ ấy, thuở Nhật, Tây cùng đô hộ,Chúng thi nhau cướp lúa của dân lúa rồi, hết sạch cả khoai ngô;Hết củ chuối, hết nhẵ khô cả sắn!Ngày giáp hạt không còn chi để nhấm,Đói cháy lòng, đành nhá cả mo cau;Nhá cả bèo và nuốt cả khô dầu!Đói! Đói! Đói! Người nhao lên vì đói! Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia biệt quê hương, lê gót âm thầmTrên rải rác mọi nẻo đường đất gia đình dắt díu nhau lê bướcĐi lang thang mong sống tạm qua lúa lên hương, bông trĩu đầu tháng nữa sẽ hồi cư sẽ sống!Nhưng đau đớn hỡi ơi là ảo mộng!Họ ra đi hy vọng có ngày về!Nhưng chẳng bao giờ về nữa, hỡi người quê!Dần lả gục khắp đầu đường xó chợ! Cùng lúc ấy cũng trên đường rộn rã,Từng đoàn xe chuyên chở thóc vàng của dân đen, thóc của những ngườiĐang chết đói vì thực dân cướp chúng cướp phần vung xài huy hoắc,Phần chúng đem để mục nát trong kho!Ôi, đau thương, chưa từng thấy bao giờ…Trong lịch sử chưa bao giờ từng có!Hai triệu người, vì thực dân, lìa bỏNước thân yêu, oan uổng chết đau thương,Trong lúc đầy đồng bát ngát, ở quê hương,Lúa mơn mởn đang ra đòng trổ trái,Lúa trĩu hạt vàng tươi sai gấp bội,Ngạt ngào thơm báo hiệu ấm no người đi không về nữa, than ôi!Lúa chín gục, chẳng còn ai gặt hái!… Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối!Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!Quên sao được hai triệu người chết đói!Năm Ất Dậu tháng ba, còn nhớ mãi,Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!Những thây ma thất thểu đầy ngã gục không đứng lên vì… đói!Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm!… Bên cạnh Thơ Về Nạn Đói 1945, Tặng Bạn ❤️️ Bài Thơ Về Đất Nước Việt Nam ❤️️Những Bài Ca Ngợi Tổ Quốc Hay Các Bài Thơ Về Nạn Đói 1945 Tuyển tập những bài thơ nói về nạn đói 1945 ý nghĩa nhất. Đa nhim, nhớ lại một tứ thơ mười lăm năm trước Tác giả Trần Xuân An Ngồi trước trang sách mởbóng điện tròn sáng soinghe trĩu đau vầng tránnghẹn đặc giọt mồ hôi giọt mồ hôi cúi mặt trồng đaybỏng kiếp tôi đòitrên đồng lúa ngậm đòngphải cắn răng nhổ bỏ! chữ học trò giấy vởbóng đèn chao nét ngờingước lên nhìn giọt lệtự thuở nào, sắp rơi giọt lệ rơi từ hốc mắt hờn căm ngút trờihai triệu rưởi người quắt queo chết đói! sổ tay thơ buốt nhóimáu ứa ra chảy ròngnhư mồ hôi nước mắtbóng điện rực rỡ hồng giọt máu hồng nhoà ngực lạnh mưa đôngvẫn nắm chặt tầm vông lao vào đồn giặc! đâu chỉ là nước mắtchuyện tình xưa, đa nhim!bóng điện treo từng giọtlương tâm không im lìm thắp màu nắng nghìn xưabao dung nhân hậu ấm buồng timđể Hi-rô-shi-ma, Na-ga-sa-kicũng đêm đêm rưng rưnggiọt nắng! Nghi thức nhặt cơm rơi của bà mẹ quêTác giả Trần Xuân An Quý hạt ngọc trời, thói quen từ béchao vào muỗng canh những hạt cơm rơiđưa lên miệng, kính cẩn lời niệm khẽchưa từng nhạt phai, dù tuổi tám mươi Ất Dậu, bốn lăm, niềm đau trận đóicha lén ăn, để chết lịm con thơquá tủi thẹn, đã tự mình treo cổ!suốt đời bà, chưa khuây quên bao giờ chuyện quê buồn, tôi nghe từ tuổi nhỏngười thành ma đói, ngập chợ đầy đườngmột cơ khổ giữa trùng trùng cơ khổnăm năm giặc Nhật, mấy triệu đau thương trở mặt Đông Du, mị lừa Đại Áxót đau, biết trước, còn bịp ai đây!nay tóc bà vẫn trắng mây nhân hậulỡ cơm rơi, nhặt lại, dẫu đủ đầy nỗi mất nước khắc sâu vào số phậntiếc ngọc trời thành nghi thức nguyện cầuHiro, Naga cũng hằng tưởng niệmvới tiếng bẻ gươm? vỗ cánh bồ câu. Giời làm chết đói tháng baTác giả chưa rõ Giời làm chết đói tháng baNgười thì bán cửa bán nhà để ănNgười thì bán áo bán khănBán đi cho sạch, cốt ăn sống ngườiNgười thì bán mâm bán nồiNgười thì bán cả đồ chơi trong nhàNgười thì bán đất bán nhàNgười thì bán cả mâm xà bát hươngNgười thì bán sập bán giườngCó người bán chĩnh làm tương độ chầyGiời ơi đất hỡi có hay? Đói! Đói!Tác giả Tố Hữu Lúa mùa mất sạch mọi nơiGiặc còn vơ vét hết nồi đến thăng!Đói xo khắp xóm khắp làngRau dưa chết giá, ngô lang xạc xờBuồn trông đồng trắng bãi khôLúa chiêm thôi hết ước mơ đầy nồi!Một quan gạo sáu lon thôiKhông tiền mua cám mà nuôi mẹ giàCháu thơ đói lả ôm bàCon đeo chân bố khóc la đêm ngày! Bà con ơi, tính sao đây?Bã nâu thính trấu nhét đầy bụng sao?Ăn xin, xin chẳng có nàoNằm lăn mà khóc, mà gào ai thương?Há đành chết lặng trên giườngHá đành gục xuống bên đường chết queo?Dậy đi, hỡi bạn đói nghèoTay cầm thúng mủng, lưng đèo cháu conSợ chi doạ nạt roi đònRủ nhau ta tới công môn ta đòiPhát cho ta gạo ngô khoaiCứu dân đi hỡi các ngài mặt mo!Lúa ta chất ứ đầy khoDành cho ai hưởng, chẳng cho ta dùng?Phát ngay cho kẻ bần cùngMẹ cha, con cháu, vợ chồng ta ăn!Bà con ơi, chớ tần ngầnCứu đời ta sống, phải cần tay ta!Tiến lên hăng nữa, đừng thaCầm dao, cầm súng xông ra phen nầy!Đánh cho giặc Nhật tan thâyVằm cho nát mặt cả bầy Việt gianDiệt trừ phát-xít dã manViệt Nam độc lập hoàn toàn tự doĐời dân ta mới ấm no! Chia Sẽ ❤️️ Thơ Về Quê Hương Đất Nước Hay ❤️️65+ Bài Thơ Về Tổ Quốc
Văn học Việt Nam và nạn đói năm 45 Trong quá trình học môn Ngữ Văn, chúng ta sẽ nhận thấy có rất nhiều tác phẩm có bối cảnh hoặc hình tượng nhân vật.. dựa trên thực tế. Và mỗi học sinh phải có những kiến thức nhất định về những điều trên để có thể có được những bài phân tích văn học có chất lượng, giúp bài văn của bản thân trở nên đặc biệt, có chiều sâu. Ở bài viết ngày hôm nay, mình sẽ nêu ra một dấu mốc xuất hiện rất nhiều trong những áng văn Việt Nam, đó là "Nạn đói năm 1945". Qua những áng văn chương, chúng ta đã chứng kiến câu chuyện đau lòng của lịch sử Việt Nam. Đó là thời mà cái đói, cái rét bủa vây lấy đồng bào mình. Chắc hẳn, chưa ai quên được những câu thơ trong tác phẩm "Bếp lửa" của nhà thơ Bằng Việt "Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy" Cái sự "đói mòn đói mỏi" đầy ám ảnh ấy lặng lẽ bước vào văn chương, để rồi sau này ra đời những truyện, những hồi ký ám ảnh người đọc về sau. Có mấy ai mà không bồi hồi, xót xa khi nghĩ về nốt trầm mặc ấy của dân tộc.. Vậy, nỗi ám ảnh ấy đã xuất hiện trong văn chương như thế nào? Trước hết, chúng ta hãy tới với nhà văn Tô Hoài. Ông đã từng viết về nạn đói "Mỗi khi chợt nghĩ lại, tôi vẫn bàng hoàng về những năm khủng khiếp ấy", không chỉ vậy, tác giả "Vợ chồng A Phủ" còn từng nói rằng "chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá". Cái run rẩy kia âu cũng chính là cái run rẩy của Tô Hoài, của mỗi con người Việt Nam khi thấy hiểu trước nạn đói đã cướp đi tính mạng của hai triệu con người. Thật vậy, trong tác phẩm "Chuyện cũ Hà Nội", ông đã đưa cái "run rẩy" vào câu văn khi miêu tả chuyện mua bán trẻ em như mua bán một con lợn giữa những năm đói như sau "Lại thêm người đói các nơi ùn tới. Trong đầu chợ, nhan nhản người đem bán trẻ con. Ở làng tôi, người quảy trẻ con sang bán ở các chợ bên kia sông Hồng. Có người chuyên đi buôn trẻ con, như thời thường mua bán gà lợn. Nhưng đâu bây giờ cũng hết cái ăn, ai còn mua trẻ con làm gì. Bắt đi lắm khi lại dắt về. Khốn khổ". Lúc bấy giờ, Hà Nội đâu phải là nơi nạn đói hoành hành, thế nhưng người đói đổ về đây rất nhiều, điều này dẫn tới hình ảnh phố phường Hà Nội đầy thê lương, vất vưởng "Càng phấp phỏng, càng hoảng hốt khi trông thấy lũ lượt người đói các nơi kéo vào.. Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày đêm xe kéo xác chết lầm lũi qua". Chừng ấy đủ khiến người ta hình dung một hiện thực khắc nghiệt, tang tóc đến nghẹn lòng. Nhắc đến sự kiện nạn đói năm 45 trong văn học thì không thể không kể đến Nam Cao. Các tác phẩm truyện ngắn của ông, mỗi truyện khắc họa một bi kịch khác nhau của phận người trong cái đói, cái nghèo. Ông đã từng đau đớn mà viết rằng "Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể". Nam Cao đã nhìn ra cái đói đã tiềm tang tự thuở nào trong đời sống của những con người thấp cổ bé họng. Đó là hình ảnh một lão Hạc sống leo lắt qua ngày trong khu vườn chẳng còn gì để bán. Đó là nhân vật bà lão đói quá lâu, cho tới khi có được một bữa no thì cơ thể không thể chịu được bữa no bất thường ấy, rồi bà lão lăn ra chết. Trong cái nghèo, cái đói, và sự cô độc ấy, con người ta dường như phải giành giật sự sống, dù chỉ là hi vọng mong manh nhất. Tương tự với những áng văn của Nam Cao, tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân cũng phản ánh vô cùng chân thực cái rùng rợn của nạn đói năm 45. Truyện lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 tràn lan khiến người chết như ngả rạ, người sống dật dờ như những bóng ma. Cái hình ảnh người "chết như ngả rạ" khiến chúng ta không khỏi sợ hãi trước trò đùa của tạo hóa. Thế nhưng, trong hoàn cảnh tước cái đói, phải đối diện tử thần, nhiều người mất nhân tính, cốt có cái đưa vào miệng, vẫn có những câu chuyện xúc động. Đó chính là câu chuyện của Tràng và thị, những con người chưa biết ngày mai sẽ như thế nào nhưng họ vẫn sẵn sàng tìm đến nhau, trao nhau hơi ấm tình người. Không chỉ trong các tác phẩm truyện ngắn, cái đói cái nghèo ấy cũng xuất hiện ngay cả những dòng thơ. Trong tác phẩm "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", Văn Cao đã phải đau đớn mà thốt lên rằng "Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa Chập chờn ảo hóa tà ma.. Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục Tình tang.. Não nuột khóc tàn sương Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể Ta đi giữa đường dương thế Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây.." Hay như trong tác phẩm "Ô Cầu Dền" của nhà văn Bảo Sinh, cái chết giữa những tháng ngày đói khổ ấy đã trở thành cái chết chung, là "mả chôn chung" của cả dân tộc "Năm 1945, đây là mả chôn chung của nạn nhân chết đói. Hàng ngày, xe bò chở đầy xác chất trên phủ mảnh chiếu, chân tay thò ra ngoài, lọc cọc, rập rình, xe đu đưa những cánh tay, cẳng chân cũng đu đưa theo. Xác chết được đổ đầy vào một cái hố chôn chung, sau đó lấp đất phẳng, không có dấu hiệu mồ mả gì cả". Những câu văn, lời thơ trên chua chát, đắng cay bởi nó có hiện thực, có mồ hôi, nước mắt, xương máu của đồng bào ta. Từng hình ảnh cứ hiện lên sống động qua từng con chữ như muốn nhắc nhở người ta ghi nhớ mãi, như ghi nhớ một thứ kí ức đớn đau đến cứa da cứa thịt của dân tộc này! Cảm ơn mọi người đã đọc bài của mình nạn đói văn học ý nghĩa
thơ về nạn đói 1945